Sử dụng bằng cấp giả bị xử lý như thế nào?

Cập nhật, 10:26, Thứ Sáu, 15/04/2016 (GMT+7)

Ông Lê Văn Mới, ngụ xã Trường An- TP Vĩnh Long hỏi: Những người là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và những người hoạt động không chuyên trách mà sử dụng bằng cấp giả (bằng tốt nghiệp THPT, bằng tốt nghiệp ĐH) thì bị xử lý như thế nào?

Sau khi nhận được thư, chúng tôi đã liên hệ với Công an TP Vĩnh Long và được trả lời như sau:

Theo quy định tại Điều 8 Luật Giáo dục thì văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học sau khi tốt nghiệp cấp học hoặc trình độ đào tạo theo quy định của luật này.

Văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân gồm bằng tốt nghiệp THCS, bằng tốt nghiệp THPT, bằng tốt nghiệp trung cấp, bằng tốt nghiệp CĐ, bằng tốt nghiệp ĐH, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ.

Chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học để xác nhận kết quả học tập sau khi được đào tạo hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp.

Như vậy, với tất cả các trường hợp không qua học tập, đào tạo, thi cử mà có chứng chỉ thì chứng chỉ đó được xác định là chứng chỉ giả.

Chế tài để xử lý những vi phạm liên quan đến giáo dục nói chung là từ xử lý hành chính cho đến xử lý hình sự.

Đối với trường hợp những người làm ra, mua bán, sử dụng bằng cấp, chứng chỉ giả... thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”, được quy định tại Điều 267 Bộ luật Hình sự như sau:

Người nào làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu tài liệu giấy tờ đó nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân, thì bị phạt tiền từ 5- 50 triệu đồng hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2- 5 năm: Có tổ chức, phạm tội nhiều lần; gây hậu quả nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm.

Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 4- 7 năm.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5- 50 triệu đồng.

Như vậy, việc sử dụng bằng giả được xem là có hành vi “sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ giả” là một điều cấm.

Nhưng để xác định người sử dụng có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không thì phải xem xét mục đích của hành vi, nếu mục đích đó nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 267 Bộ luật Hình sự.

PHÒNG BẠN ĐỌC