An ninh đời sống

Đất thành “vàng”- chị em trở mặt

Cập nhật, 07:36, Thứ Tư, 24/07/2013 (GMT+7)

Lúc đất rẻ bèo, chị em thỏa thuận căn nhà chia đôi mỗi người một nửa. Nhưng từ khi Nhà nước mở đường, giá đất tăng vùn vụt thì chị em trở mặt đưa nhau ra tòa đòi sở hữu cả nhà và đất.

Bà D.T.L. và ông D.C.N. là chị em ruột cùng trú tại Phường 5 (TP Vĩnh Long). Do ông N. không có ruộng đất, hoàn cảnh khó khăn nên bà L. cho vợ chồng ông N. đến ở nhờ tại thửa đất 430 trên đường 14 Tháng 9 (Phường 5) từ năm 2008.

“Lúc đó, chị L. có hứa miệng sẽ chuyển nhượng 1/2 diện tích đất cho tôi nên vợ chồng tôi mới vay mượn tiền san lấp, xây nhà để ở. Giờ thấy giá đất xung quanh tăng vùn vụt, chị không nghĩ đến tình máu mủ, trở mặt nói nhà của mình nên đòi lại và đuổi vợ chồng tôi đi”- ông N. kể.

Trong đơn khởi kiện gửi TAND TP Vĩnh Long, bà L. cho rằng: Căn nhà cấp 4 gắn liền với thửa đất 430 trên đường 14 Tháng 9 do bà bỏ tiền ra cất vào tháng 10/2007 và hoàn tất vào tháng 1/2008 với tổng chi phí hơn 33 triệu đồng.

Sau khi cất nhà xong, do chưa có nhu cầu sử dụng, trong khi ông N. thì không có chỗ ở nên bà L. cho gia đình ông N. ở nhờ và 2 bên có thỏa thuận miệng là khi nào cần bà sẽ lấy lại nhà.

Từ tháng 4/2008 đến nay, do cần lấy lại nhà nên bà L. nhiều lần yêu cầu ông N. dọn đi nhưng ông N. không đồng ý. Do đó, bà yêu cầu ông N. trả lại nhà gắn liền với đất và phải bồi thường thiệt hại do căn nhà xuống cấp 40% bằng số tiền 16 triệu đồng.

Tại đơn phản tố ngày 26/1/2011, ông N. nêu: Căn nhà cấp 4 được xây trên phần đất của bà L. là do ông bỏ tiền ra cất, bà L. chỉ hùn vài bao xi măng và cát. Khi xây nhà, ông là người thuê mướn thợ, trả tiền công, trực tiếp đi mua vật tư và trông coi thợ làm.

Gia đình ông thuộc diện nghèo, 3 con còn nhỏ, không có điều kiện chuyển đi nơi khác nên ông yêu cầu tòa công nhận phần đất 60,9m2 thuộc thửa 430 là quyền sử dụng hợp pháp cho gia đình ông. Ông sẽ thanh toán giá trị QSDĐ lại cho bà L. theo quy định của Nhà nước.

Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự vừa được TAND TP Vĩnh Long đưa ra xét xử mới đây, qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả thẩm tra, tranh luận tại tòa, HĐXX nhận định: Thửa đất 430 60,9m2 do bà L. đứng tên QSDĐ. Trên thửa đất này có một phần gắn với căn nhà cấp 4 đang tranh chấp, được xây dựng cuối năm 2007. Đầu năm 2008, vợ chồng ông N. và các con cùng sinh sống tại đây là có thật.

Xét các chứng cứ bà L. đưa ra như: giấy xác nhận ký tên của người làm chứng chỉ thể hiện nội dung chung chung; sổ khách hàng mua bán vật tư không thể hiện được mục đích bà L. mua vật tư là để xây nhà đang tranh chấp; tờ tường trình chi phí xây nhà, thuê mướn thợ,… chỉ có Phòng Kinh doanh DNTN P.V (Phường 5) xác nhận,… nên các chứng cứ này chưa đủ cơ sở chấp nhận.

Ông N. cũng không đưa ra được chứng cứ chứng minh toàn bộ chi phí xây nhà và số vật tư mà bà L. đã hùn là bao nhiêu.

Trong khi tại biên bản hòa giải ngày 12/12/2008 của UBND Phường 5, bà L. xác định căn nhà trên là do bà và em trai hùn tiền cất. Hiện trạng căn nhà đang tranh chấp cũng thể hiện rõ bằng trụ bê tông giữa nhà được 2 bên dựng lên nhằm ngăn nhà ra làm 2, mỗi người một bên.

Khi xin số nhà, bà L. cũng chỉ xin đối với phần nhà 32m2chứ không phải toàn bộ diện tích căn nhà đã xây dựng.

Những người làm chứng là thợ bơm cát, thợ xây nhà,… xác nhận có nghe nguyên đơn và bị đơn bàn bạc việc hùn cất nhà và có thấy nguyên đơn và bị đơn cùng trông coi việc xây nhà, vận chuyển vật tư về để xây nhà nhưng lại không xác định được thực tế nguồn tiền để xây nhà là của ai.

Như vậy cả nguyên đơn và bị đơn đều không chứng minh là người đã bỏ toàn bộ công sức, tiền bạc ra để xây nhà cũng như không ai chứng minh được quyền sở hữu của mình đối với phần nhà tranh chấp.

Do đó, phần nhà tranh chấp được xác định không phải là của riêng bên nào mà đây là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của cả 2 bên.

Xét ông N. và bà L. đều có nhu cầu về nhà ở cho gia đình mình, nhưng bà L. hiện đã có chỗ ở ổn định là căn nhà riêng mới xây tại đường 14 Tháng 9 (có xác nhận của chính quyền địa phương), còn ông N. không có chỗ ở nào khác nên nhu cầu cấp bách về nhà ở nhiều hơn.
 
Do đó, HĐXX TAND TP Vĩnh Long đã tuyên án sơ thẩm cho vợ chồng ông N. và các con được tiếp tục ở lại căn nhà trên và được sử dụng phần đất 60,9m2 (loại đất vườn).

Buộc ông N. có nghĩa vụ hoàn trả cho bà L. trị giá đất và 1/2 căn nhà gắn liền với thửa đất 430 bằng số tiền hơn 35,8 triệu đồng và có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do cố tình sử dụng phần căn nhà của bà L. làm giảm giá trị 40% tương đương 16 triệu đồng.

Bản án còn nêu vợ chồng ông N. “có quyền đến cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký QSDĐ, quyền sở hữu nhà theo quy định của pháp luật” nhưng thực tế lại không suôn sẻ như thế. Bởi sau phiên tòa sơ thẩm, cả ông N. và bà L. đều chống án, tiếp tục giành quyền sử dụng số tài sản trên ở phiên tòa phúc thẩm.

PHƯỢNG NGÂN