Sự tương đồng giữa Chiến dịch Hồ Chí Minh và Chiến dịch Điện Biên Phủ

Cập nhật, 05:54, Thứ Ba, 30/04/2024 (GMT+7)

 

Ngày 7/5/1954, Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” đang phấp phới bay trên nóc hầm Tướng De Castries. Ảnh: Tư liệu
Ngày 7/5/1954, Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” đang phấp phới bay trên nóc hầm Tướng De Castries. Ảnh: Tư liệu
LTS: Diễn ra sau Chiến dịch Điện Biên Phủ đúng 21 năm, Chiến dịch Hồ Chí Minh có sự tương đồng, kế thừa và phát triển lên tầm cao mới. Nhân kỷ niệm 49 năm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cần”, Báo Vĩnh Long lược ghi bài viết của nguyên Đại tá Trần Văn Thức (Viện Lịch sử Việt Nam). 
 
Mùa Xuân năm 1975, bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, với một loạt chiến dịch lớn, mà quan trọng là Chiến dịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã giành được đại thắng lợi, kết thúc vẻ vang sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
 
Giữa Chiến dịch Điện Biên Phủ và Chiến dịch Hồ Chí Minh có nhiều điểm tương đồng, và Chiến dịch Hồ Chí Minh có sự kế thừa từ Chiến dịch Điện Biên Phủ, tuy nhiên, Chiến dịch Hồ Chí Minh có sự phát triển ở tầm cao mới.
 
Thứ nhất, đó là 2 trận quyết chiến chiến lược
 
Với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” và với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng, cả nước ta đã đồng lòng, chung sức, cùng đứng lên chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Trong suốt 9 năm kháng chiến (1945-1954), dân tộc ta đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, đánh địch mọi nơi, mọi lúc.
 
Trên mặt trận đấu tranh quân sự, quân và dân ta đã tiến hành hàng ngàn trận đánh, 46 chiến dịch với quy nhỏ, vừa và lớn, lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch của thực dân Pháp. Mở đầu là chiến dịch phản công trên chiến trường rừng núi Việt Bắc, làm phá sản hoàn toàn kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” và cuối cùng là Chiến dịch Điện Biên Phủ- chiến dịch tiến công quy mô lớn nhất đến thời điểm lúc bấy giờ.
 
Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra trên địa bàn rừng núi Tây Bắc, thuộc tỉnh Điện Biên ngày nay, trong thời gian 56 ngày đêm. Với chiến dịch này, quân và dân ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm phòng ngự mạnh nhất của quân đội Pháp trong chiến tranh xâm lược Đông Dương, mà các tướng lĩnh Pháp, Mỹ cho rằng, đó là “pháo đài bất khả xâm phạm”.
 
Với chiến dịch này, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 tên địch, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, 10 đại đội ngụy và các đơn vị công binh, vận tải, xe tăng,…; thu toàn bộ vũ khí và kho tàng của địch ở Điện Biên Phủ, trong đó có 28 khẩu pháo lớn, 64 xe quân sự, 5.915 súng các loại, bắn rơi, phá hủy 57 máy bay.
 
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ cùng với các thắng lợi trên khắp các chiến trường cả nước và toàn Đông Dương trong giai đoạn Đông Xuân 1953-1954 đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp.
 
Pháp thất bại, Mỹ lợi dụng tình thế, thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam. Một lần nữa dân tộc Việt Nam lại đứng lên tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Phát huy tinh thần Điện Biên Phủ, với ý chí quyết tâm “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, cả nước cùng ra trận, cả nước cùng chiến đấu bằng trí thông minh và lòng quả cảm.
 
Suốt 21 năm, trên cả hai miền đất nước, mà quan trọng là ở miền Nam, quân và dân ta đã tiến hành hàng ngàn trận đánh, với gần 40 chiến dịch, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn, chiến lược chiến tranh của Mỹ, buộc Mỹ phải “cút”, ngụy phải “nhào”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, An Lão được coi là chiến dịch đầu tiên, diễn ra từ ngày 29/11-8/12/1964 trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định, và cuối cùng là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, diễn ra từ ngày 26-30/4/1975, đánh vào đầu não và lực lượng quan trọng nhất của chính quyền, quân đội Việt Nam Cộng hòa.
 
Với Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã tiêu diệt, làm tan rã khoảng 250.000 tên địch, gồm 7 sư đoàn bộ binh, 5 lữ đoàn dù, kị binh thiết giáp, pháo binh, 4 sư đoàn không quân,…; thu 500 súng pháo, trên 400 xe tăng, xe bọc thép, 800 máy bay, 600 tàu chiến, 3.000 xe quân sự, 270.000 khẩu súng các loại; giải phóng TP Sài Gòn- Gia Định và các tỉnh lân cận.
 
Chiến dịch Hồ Chí Minh- chiến dịch tiến công lớn nhất, trận quyết chiến chiến lược vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta- đại thắng lợi, đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
 
Năm 1989, trong một bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về Chiến dịch Điện Biên Phủ sau 35 năm thắng lợi, có đoạn: “Điện Biên Phủ cùng với Chiến dịch Hồ Chí Minh, với Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa,… đã trở thành những “cây mốc bằng vàng” trong lịch sử oanh liệt của dân tộc Việt Nam”.
 
Thứ hai, thắng lợi của 2 chiến dịch đó là tổng hợp sức mạnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh
 
Chiến dịch Điện Biên Phủ và Chiến dịch Hồ Chí Minh là những chiến dịch tiến công chiến lược. Sức mạnh tổng hợp của cả nước, của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, bao gồm cả yếu tố chính trị- tinh thần, ý chí, trí tuệ Việt Nam, sức mạnh của tiền tuyến và hậu phương, chiến trường chính và chiến trường phối hợp, sức mạnh của lực lượng vũ trang 3 thứ quân,… được huy động tối đa, nhân lên gấp bội, trở thành nhân tố quyết định làm nên thắng lợi của 2 chiến dịch này.
 
Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, Điện Biên Phủ là chiến trường chính, là tiền tuyến; cả nước vừa là chiến trường phối hợp, vừa là hậu phương, cùng chiến đấu và chi viện cho Điện Biên Phủ.
 
Sức mạnh của cả nước được huy động cho Chiến dịch Điện Biên Phủ ở mức cao nhất trên tất cả mọi phương diện, cả về lực lượng, vũ khí, trang bị, hậu cần,… 
 
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ là kết quả trực tiếp của 56 ngày đêm (từ ngày 13/3-7/5/1954) chiến đấu kiên cường, dũng cảm, tài trí và mưu lược của quân và dân ta; của toàn chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954; và cũng là kết quả của 9 năm kháng chiến (1945-1954). Nói cách khác, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc quyết đánh và quyết thắng đã làm nên chiến công Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
 
Mùa Xuân 1975, để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chiến lược đánh tan cơ quan đầu não và lực lượng quân sự quan trọng nhất của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta một lần nữa lại được huy động ở mức cao nhất. 
Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, xe tăng của quân Giải phóng đã tiến vào dinh Tổng thống, sào huyệt cuối cùng của chế độ Ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước. Ảnh: Tư liệu
Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, xe tăng của quân Giải phóng đã tiến vào dinh Tổng thống, sào huyệt cuối cùng của chế độ Ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước. Ảnh: Tư liệu
 
Sức mạnh tổng hợp của cả nước trong Chiến dịch Hồ Chí Minh còn được biểu hiện rất rõ nét ở trí tuệ Việt Nam, đó là tài trí chỉ đạo, lãnh đạo chiến tranh của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng.
 
Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh là kết quả trực tiếp của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam trong mùa Xuân năm 1975, của 21 năm kháng chiến chống Mỹ và đồng thời là của 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc (1945-1975).
 
Có thể nói, thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ và Chiến dịch Hồ Chí Minh là một trong những biểu trưng cao đẹp nhất của sức mạnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
 
Thứ ba, nghệ thuật quân sự trong Chiến dịch Hồ Chí Minh phát triển lên tầm cao mới
 
Tất cả các chiến dịch mà quân và dân ta tiến hành trong 30 chiến tranh giải phóng dân tộc, kể từ chiến dịch đầu tiên (Chiến dịch Việt Bắc, Thu Đông năm 1947) đến chiến dịch cuối cùng (Chiến dịch Hồ Chí Minh), đều có nét chung là sự thể hiện rõ nét nghệ thuật chiến dịch chiến tranh nhân dân Việt Nam. Lực lượng tham gia chiến dịch không chỉ có bộ đội chủ lực, mà còn có cả lực lượng vũ trang tại chỗ, cùng Nhân dân trên địa bàn chiến dịch.
 
Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch tiến công lớn nhất trong kháng chiến chống thực dân Pháp, là đỉnh cao của nghệ thuật chiến dịch trong cuộc kháng chiến đó.
 
Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra trong thời gian dài (56 ngày đêm), được tiến hành theo phương châm “đánh chắc, tiến chắc”. Để bảo đảm thắng lợi, ta đã tổ chức, thực hiện thành công nghệ thuật chiến dịch tiến công. Nét bao trùm nhất của Chiến dịch Điện Biên Phủ là đánh tiêu diệt lớn, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm (hình thức phòng ngự kiên cố, hiện đại nhất của quân Pháp lúc bấy giờ), đánh tan toàn bộ sinh lực địch, thu toàn bộ vũ khí, trang bị quân sự của chúng.
 
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch tiến công lớn nhất trong 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, cả về quy mô lực lượng, cường độ tiến công, tác chiến hiệp đồng quân binh chủng và mức độ hoàn thành triệt để nhiệm vụ chiến lược.
 
Nghệ thuật quân sự trong Chiến dịch Hồ Chí Minh phát triển lên tầm cao mới, thể hiện tập trung ở một số nét tiêu biểu sau:
 
- Tập trung lực lượng quân sự lớn nhất, hình thành ưu thế áp đảo, tiêu diệt và làm tan rã nhanh chóng tập đoàn phòng ngự lớn nhất của địch ở trung tâm đầu não của chúng. Lực lượng cơ động đã được tổ chức ở quy mô cấp quân đoàn, lớn và mạnh hơn nhiều so với lực lượng chủ lực quy mô cấp đại đoàn (sư đoàn) như trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.
 
- Trước khi nổ súng mở màn chiến dịch, ta đã hình thành được thế trận bao vây chặt TP Sài Gòn- Gia Định trên tất cả các hướng. Đó là thế trận rất hiểm, dựa trên lực lượng rất mạnh của toàn chiến dịch, với cả lực lượng quân sự và chính trị, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, trong đó nổi lên vai trò nòng cốt, quyết định, đi trước một bước của các quân đoàn cơ động chiến lược.
 
- Chiến dịch diễn ra trong thời gian rất ngắn (từ ngày 26-30/4/1975), dứt điểm nhanh, có sự kết hợp chặt chẽ giữa tập trung lực lượng ưu thế để tiêu diệt các sư đoàn chủ lực cơ động của địch ở tuyến phòng thủ vòng ngoài với thọc sâu của các binh đoàn cơ giới, đột kích lớn vào trung tâm thành phố, chiếm các mục tiêu quan trọng nhất.
 
Chính đòn tiến công quân sự rất mạnh, rất nhanh đã thu hút, tiêu diệt, làm tan rã phần lớn lực lượng chủ lực địch, phá vỡ phòng tuyến vòng ngoài của chúng, tạo điều kiện cho Nhân dân nổi dậy làm chủ khóm, phường, đường phố. Đó chính là sự kết hợp trên quy mô lớn của 3 mũi giáp công, tiến công về quân sự và sự nổi dậy đồng loạt của quần chúng.
 
Kế thừa và phát triển nghệ thuật quân sự là nét xuyên suốt trong lịch sử quân sự Việt Nam, đặc biệt là trong 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, mà tiêu biểu là trong 2 trận quyết chiến chiến lược- Chiến dịch Điện Biên Phủ và Chiến dịch Hồ Chí Minh. Chính điều đó đã góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975 của dân tộc Việt Nam.
PV