Lạc giữa đồng đưng

Cập nhật, 05:30, Thứ Hai, 11/09/2017 (GMT+7)

Mùa mưa năm 1974, Tiểu đoàn 1 (D1) chúng tôi được lệnh trụ lại bờ bao Mỹ Hòa chống càn, thực hiện ý đồ chiến lược của cấp trên về việc chuyển quân và chuyển vũ khí vào vùng sâu của địch, chuẩn bị cho chiến dịch lớn của miền.

Vì vậy, mặc dù lực lượng dự trữ của ta rất đông, tiểu đoàn chúng tôi vẫn phải một mình đương đầu chịu trận. Mãi đến ngày thứ 7 mới được trung đoàn tăng cường thêm một khẩu đội 12 ly 8.

Khẩu đội này thuộc đại đội hỏa lực của trung đoàn, cho nên dù anh Hùng-D trưởng giao cho tôi trực tiếp chỉ huy, tôi cũng không thể buộc họ phải đánh theo ý đồ của chúng tôi, bởi tay khẩu đội trưởng đã nói thẳng với tôi rằng, họ chỉ có chừng đó cơ số đạn, bắn hết là hoàn thành nhiệm vụ.

Mà họ bắn, trời ạ, cứ thấy địch là họ bắn xối xả mà lúc đó, đạn 12 ly 8 thì tiểu đoàn tôi làm gì có. Họ bắn hết đạn là họ ngồi chơi xơi nước, chúng tôi chẳng thể làm gì được họ.

Thế rồi trong một lần vượt vòng vây về trung đoàn báo cáo quân lực, chuyển giao thương binh và nhận vũ khí bổ sung, tôi phát hiện giữa đồng nước mênh mông, có giấu rất nhiều súng ống và đạn dược các loại dưới đồng nước.

Vậy là tôi cho cả đoàn về trước, còn tôi với tay trinh sát ở lại, lặn hụp mò tìm, lấy được 4 thùng đạn 12 ly 8.

Khi chúng tôi chuẩn bị trở về thì trời đổ một cơn mưa rất lớn, kéo dài cả tiếng đồng hồ. Dứt cơn mưa thì trời đã sụp tối, bốn bề đen đặc như bưng lấy mắt, bầu trời không có lấy một vì sao để định hướng.

Muốn tìm một cây gì đó để xem rêu mà chọn hướng đi cũng không có, bởi bờ bao Mỹ Hòa nằm trơ trọi giữa đồng đưng, mùa mưa nước ngập mênh mông, nước ngập có nơi sâu đến 2m. Tôi với tay trinh sát tiểu đoàn cứ đoán mò mà bơi tới tới.

Khổ nỗi, mấy đêm trước, máy bay đầm già đêm nào cũng lượn thả đèn dù và bắn đại liên ằng ặc như trâu đái, còn đêm nay thì lại không hề có động tịnh gì, nên giữa đồng nước tối hù tối hịch, chúng tôi không thể biết mình đang ở đâu, tiểu đoàn ở phía nào.

Bơi mò mò thế này rất dễ lạc vào trận địa bao vây của đối phương, tôi với tay trinh sát chỉ có 2 khẩu AK cùng mấy trái lựu đạn lóc- mít của Mỹ, nếu lọt vào trận địa lính sư 7 thì cầm chắc là phải chết.

Khủng khiếp hơn là đang bơi thì tôi nhận ra xung quanh toàn ngọn lúa phơ phất trên mặt nước. Điều đó có nghĩa là, chúng tôi đã lạc vào vùng có dân, tức đã lạc vào vùng Mỹ An, địa hình đồng không mông quạnh, không có nơi ẩn nấp, sáng ngày rất dễ làm mồi cho trực thăng.

Vậy là chúng tôi vòng xuồng bơi ngược lại. Nhưng càng bơi lại càng thấy lúa nhiều hơn. Đang lúng túng không biết xoay xở ra sao, chợt tôi phát hiện phía chếch về bên phải có ánh đèn.

Có đèn giữa đồng nước nghĩa là có nhà chòi của dân, vì tôi biết dân Tháp Mười hay cất nhà chòi để nuôi vịt chạy đồng.

Tôi nói tay trinh sát cập xuồng sát bờ ruộng, yểm trợ để tôi tiếp cận nhà chòi. Lăm lăm khẩu AK trong tay, tôi tiến lại gần ngôi nhà chòi, thấy có ông già đang ngồi hút thuốc trên cái hầm tránh pháo, bên cạnh có cái ấm trà bằng nhôm móp méo.

Sau khi quan sát kỹ càng cả bốn phía, tôi cất tiếng gọi nhỏ:

- Bác Ba ơi!

Nghe tiếng gọi, ông già giật bắn cả người, nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ, chỉ xoay mặt lại hỏi”:

- Ai vậy cà?

Lúc này tay trinh sát đã đứng bên cạnh tôi, nòng súng cũng hướng về phía ông già. Tôi cất tiếng vừa đủ để ông già nghe được:

- Chúng tôi là quân giải phóng bị lạc đường, mong được bác giúp đỡ.

- Vậy thì vào đi. Mấy chú đang bị vây ở bờ bao Mỹ Hòa phải không? Đây về đó xa lắm. Đêm nay không đi được đâu.

Tình thế buộc chúng tôi phải ở lại, bởi lúc đó chúng tôi vừa đói vừa lạnh, lại thêm đường về quá xa, không thể đi ngay trong đêm được.

Cũng may là ông già này rất biết điều. Khi chúng tôi vào nhà, ông đã nói ngay, rằng quanh đây trống vắng lắm, chẳng có nhà dân nào cả, mấy chú cứ yên tâm. Rồi ông già nấu cơm, đãi chúng tôi ăn với cá lóc kho tiêu, rau tai tượng chấm mắm.

Khi chúng tôi ngồi ăn cơm, ông già còn nói: “Qua cũng có 2 thằng con theo giải phóng. Mấy đứa bây cứ yên tâm ở lại, chiều mai qua chỉ đường cho mà về”.

Thời gian đã mấy chục năm, tôi không còn nhớ tay trinh sát tiểu đoàn tên gì, bởi mỗi lần tôi vượt vòng vây về cứ trung đoàn (E5- tức E207 cũ) đóng ở bờ bao Kinh Chuối, bao giờ tôi cũng đi với một tay trinh sát tiểu đoàn khác nhau, nên không thể nhớ được tên của họ, dù chúng tôi phải vào sinh ra tử, sống chết cùng nhau, bởi việc tìm cách thoát ra ngoài, rồi tìm đường quay trở lại giữa vòng vây kẻ thù là cực kỳ nguy hiểm.

Tôi chỉ nhớ người thường xuyên nhận báo cáo quân lực của tôi ở trung đoàn là anh Vũ Trí Thức, bây giờ làm việc ở Văn phòng Đảng ủy Bộ Y tế tại TP Hồ Chí Minh.

Và theo báo cáo quân lực của tôi, thì suốt một tháng chống càn ở bờ bao Mỹ Hòa, quân số tiểu đoàn từ 203 người, chỉ còn lại 98 người.

Sau đó, chúng tôi về kinh Cổ Cò mới được bổ sung thêm quân số để chuẩn bị vào chiến dịch.

Trong trận đánh này, Mĩ quê Hà Bắc là người thay tôi làm A trưởng A vô tuyến điện đã hy sinh ngay trước mắt tôi, khi bị một trái pháo 155 ly nổ ngay trước mặt.

Lúc đó, tôi ngồi trong hầm chữ Z, miệng hầm quay về phía miệng hầm của Mĩ, Mĩ cầm tổ hợp trên tay, toét miệng cười với tôi rất tươi.

Khi trái pháo nổ, tôi thấy qua làn khói bụi mù mịt, Mĩ bị hất tung lên, ngã ngửa về phía sau, 2 ống chân máu xối ra thành vòi. Khi tôi nhào qua thì Mĩ đã chết.

Chết vì choáng mạch máu, do bị đứt lìa hai bàn chân cùng lúc. Còn tay khẩu đội trưởng khẩu đội 12 ly 8 của trung đoàn, sau này cũng bị mảnh pháo hay mảnh bom gì đấy, tiện đứt cùng lúc cả hai bàn tay, khi đang nhắm bắn. Nếu ai có thông tin gì thêm thì cho tôi biết, bởi tôi rất quý anh.

Nhất là khi tôi vác về cho anh 4 thùng đạn, và sau này tôi còn vác về thêm mấy thùng nữa, buộc được chân khẩu đội 12 ly 8 ở lại với tiểu đoàn.

Một phần cũng nhờ hỏa lực mạnh của 12 ly 8 mà tiểu đoàn tôi trụ được một tháng trời, giúp cấp trên thực hiện được ý đồ chuyển quân chiến dịch.

Riêng chuyện lạc giữa đồng đưng, thì sau này tôi đã biến thành truyện ngắn “Thoang thoảng hương tràm” rất thi vị.

Thật ra lúc ấy, tôi và tay trinh sát rất sợ ông già bỏ đi đâu đó, nên cứ phải thường xuyên canh chừng ông ta từng bước.

Ngay cả khi chiều xuống, lúc chúng tôi đã được ông già đãi ăn cơm với thịt vịt kho, trứng rán, rồi lên đường, chúng tôi cũng rất sợ ông già chạy đi báo.

Chỉ cần 2 chiếc bo bo rượt theo, là kể như chúng tôi toi mạng giữa đồng đưng nước ngập mênh mông như biển.

Thế nhưng đêm đó chúng tôi đã trở về đơn vị rất suôn sẻ, không hề chạm mặt bất cứ một đơn vị nào của Sư 7 bộ binh Sài Gòn đang vây kín chúng tôi. Chuyện cứ như là có phép lạ vậy!

HỒ TĨNH TÂM