Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cách mạng Việt Nam

Kỳ 2 : "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một"

Cập nhật, 12:45, Thứ Tư, 27/09/2023 (GMT+7)
Giải phóng miền Nam thoát khỏi sự cai trị của đế quốc Mỹ và tay sai để thống nhất đất nước là sự nghiệp vĩ đại của cách mạng Việt Nam, bởi “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” (Hồ Chí Minh). Tuy vậy, không rõ nhân danh ai mà chúng viết là: miền Nam đâu cần giải phóng?
 
  Từ một đô thị chủ yếu phục vụ chiến tranh trước 1975, sau 48 năm TP Hồ Chí Minh hiện nay trở thành trung tâm kinh tế- văn hóa- dịch vụ đứng đầu cả nước.  Ảnh: Trang tin điện tử TP Hồ Chí Minh
Từ một đô thị chủ yếu phục vụ chiến tranh trước 1975, sau 48 năm TP Hồ Chí Minh hiện nay trở thành trung tâm kinh tế- văn hóa- dịch vụ đứng đầu cả nước. Ảnh: Trang tin điện tử TP Hồ Chí Minh
Giải phóng miền Nam để nước độc lập, thống nhất 
 
Trên Facebook của thế lực chống phá, chúng lập diễn đàn và cho rằng “Đảng phát động và tập trung tuyên truyền miền Nam bị Mỹ xâm lược nên cần chống Mỹ để giải phóng. Và để làm điều đó, Đảng lập ra nhiều tổ chức chính trị tại miền Nam như Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Quân Giải phóng miền Nam”…
 
Tuy nhiên, theo chúng, sau năm 1954, miền Nam được “độc lập”, có chính phủ, có hiến pháp, có quân đội, cảnh sát riêng”, nhân dân được “tự do sinh sống, làm ăn” nên đâu cần ai giải phóng”?!...
 
Có đúng vậy không? Đúng là lập luận kiểu như thế này là ngụy biện, là luận điệu tuyên truyền của đế quốc xâm lược Mỹ khi thay Pháp can dự vào miền Nam cũng như các chủ thể chính trị do chúng dựng nên tại miền Nam để che đậy mục đích xâm lược, mục đích chia cắt đất nước lâu dài.
 
Vài dòng trở lại lịch sử dựng nước và lịch sử mở nước thời đại phong kiến Việt Nam, chúng ta thấy vào cuối thời Hậu Lê xảy ra giai đoạn Trịnh- Nguyễn phân tranh kéo dài gần 150 năm (1627-1777). Hậu quả là đất nước bị chia cắt làm hai với Đàng Ngoài từ bờ Bắc sông Gianh, tỉnh Quảng Bình trở ra.
 
Đàng Trong từ bờ Nam sông Gianh trở vào. Cho đến khi phong trào Tây Sơn nổ ra với ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ khởi binh chống nhà Nguyễn, nhà Trịnh, càng đánh càng lớn mạnh, đánh đâu thắng đó kể cả giặc ngoại xâm lâu đời phương Bắc (nhà Thanh) cùng giặc ngoại xâm phương Nam (Xiêm), rồi thống nhất Nam- Bắc thành một, mở ra triển vọng tốt đẹp cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Tiếc là triều đại Tây Sơn không tồn tại lâu. Có thể coi đây là công cuộc thống nhất đất nước lần thứ nhất.
 
Nguyễn Phúc Ánh, hậu duệ các Chúa Nguyễn ở Đàng Trong khởi nghĩa chống Tây Sơn. Lúc đầu rất yếu nhưng dựa vào phương Tây mà lật đổ được Tây Sơn, làm chủ cả Đàng Ngoài, thống nhất đất nước lần thứ hai. Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua lấy hiệu Gia Long năm 1802 lập ra Triều Nguyễn và cai trị nước Việt Nam thống nhất có cương thổ như ngày nay.
 
Tuy nhiên, triều đình nhà Nguyễn của Gia Long do không có độc lập, tự chủ từ khi khởi nghiệp nên bị Pháp ép dần, ép dần đến năm 1884 thì buộc phải ký hiệp ước giao cả đất Nam Kỳ phì nhiêu, màu mỡ cho Pháp.
 
Vua Nguyễn cũng mất quyền ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Vậy có phải trong suốt 85 năm, từ năm 1860-1945, lãnh thổ nước Việt Nam có còn nguyên vẹn như là nước Việt Nam thời Quang Trung, thời Gia Long không? Người dân Việt Nam có được tự do làm chủ đời mình, có đủ cơm ăn, áo mặc, có được học hành không?...
 
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. 15 năm sau khi Đảng ra đời, từ ngày 19-25/8/1945, một cuộc cách mạng nổ ra của Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo và ngọn cờ của Đảng lúc chỉ có 5.000 đảng viên nhưng thành công vang dội từ Bắc vào Nam, giành chính quyền từ Nhật- Pháp, lập ra chính quyền Nhân dân từ Bắc vào Nam, từ Trung ương tới cơ sở.
 
Và ngày 2/9 năm đó, lãnh tụ của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với Nhân dân cả nước, với thế giới về một nước Việt Nam từ nay độc lập, về một Nhà nước của Nhân dân Việt Nam từ nay ra đời là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 
Trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, sau khi trích dẫn “Tuyên ngôn độc lập" của hai nước Mỹ và Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
 
“Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
 
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho Nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
 
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết”.
"Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: 
 
- Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. (Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945)
 
Vậy đó, lời, ý tứ rõ ràng như vậy mà bọn chúng vẫn cố lập lờ, vẫn cố không nghe, không thấy để bịa chuyện, xuyên tạc là Đảng ta và Hồ Chí Minh nghe và làm theo lệnh của những lãnh đạo nước ngoài để phát động “giải phóng miền Nam”.
 
Còn về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, chúng ta thử tìm hiểu lại xem có phải như chúng tuyên truyền không? Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập bao gồm đại biểu các tầng lớp Nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ, trí thức yêu nước ở miền Nam, không phân biệt xu hướng chính trị, với Chương trình hành động 10 điểm như sau:
 
1. Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ.
 
2. Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ.
 
3. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thực hiện cải thiện dân sinh.
 
4. Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, giúp người cày có ruộng.
 
5. Xây dựng nền văn hóa giáo dục dân tộc, dân chủ.
 
6. Xây dựng một quân đội bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Nhân dân.
 
7. Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo hộ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều và kiều bào.
 
8. Thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình, trung lập.
 
9. Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
 
10. Chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hòa bình thế giới.
 
(Chương trình hành động 10 điểm của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam)
 
Chương trình 10 điểm của mặt trận nêu trên đã giải quyết một cách đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng miền Nam. Chính vì vậy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có sức thu hút mạnh mẽ các tầng lớp Nhân dân trong vùng giải phóng và các đô thị lớn. 
 
Tiếp theo, đến năm 1969, trước khi mất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng, cho dân, cho nước bản Di chúc bất hủ, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng thắng lợi, tin tưởng vào tương lai, tiền đồ tươi sáng của đất nước. Người viết:
 
“… Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân. Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
 
Dù khó khăn gian khổ đến mấy, Nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam- Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
(Trích Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh)
 
Động cơ, mục đích, phương châm chống Mỹ xâm lược cho đến ngày toàn thắng để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà để có điều kiện xây dựng lại đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” cũng là mục tiêu của Đảng từ ngày thành lập tới nay. Đó là mục tiêu kiên định, trước sau như một, chớ nào phải “vì ai, giúp ai” mà Đảng phát động cuộc chiến đánh Mỹ xâm lược hơn 20 năm như chúng lu loa tuyên truyền, lập luận ngụy biện.
 
Chúng cho rằng “miền Nam đâu cần ai giải phóng”. Vậy thì chính quyền Ngô Đình Diệm ráo riết lập “ấp chiến lược, ấp dân sinh”, ban hành Luật số 10/59, xây nhà tù khắp miền Nam, biến Côn Sơn, Phú Quốc thành nhà tù; chính quyền Nguyễn Văn Thiệu quyết định “Bình định miền Nam trong 18 tháng”, tăng quân số chính quy lên 1,2 triệu quân, cho Mỹ tăng quân vào trên 500.000 quân cùng với hàng trăm ngàn quân từ các nước… cùng ồ ạt vũ khí, phương tiện chiến tranh đổ vào miền Nam để làm gì? 
 
Ra sức bảo vệ quân xâm lược và những kẻ tiếp tay xâm lược
 
Còn để bảo vệ cho hành động xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ khi chúng leo thang chiến tranh đưa sang miền Nam 500.000 quân cùng với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại vào từ năm 1965-1972, thì chúng cho rằng để giúp chính quyền Sài Gòn bảo vệ miền Nam, ngăn cản làn sóng “cộng sản hóa” do miền Bắc phát động.
 
Chúng cũng bênh vực cả việc các quốc gia châu Á hùa theo Mỹ đưa quân vào miền Nam cùng với quân đội Mỹ ngày đêm càn quét, đem bom, bắn pháo, dùng chất độc hóa học tiêu hủy làng mạc, tiêu hủy rừng Trường Sơn, rừng U Minh, làng mạc nông thôn vùng giải phóng… Mở rộng chiến tranh ra miền Bắc bằng không quân, hải quân dùng bom, pháo tối tân đánh phá miền Bắc, giết hại đồng bào ta rất dã man, tàn bạo là chuyện phải làm. 
 
Chúng cũng đồng tình, hả hê khi một số nước Đông Nam Á nhờ vào ăn theo chiến tranh Việt Nam được Mỹ viện trợ, đầu tư… mà trở nên giàu. Chúng viết: “Các nền kinh tế thị trường mới nổi thịnh vượng của ASEAN đã được nuôi dưỡng trong những năm chiến tranh Việt Nam. Ngoài đầu tư kinh tế, một vài quốc gia giàu có nhờ là nguồn cung cấp hàng hóa, thực phẩm và cũng là trạm dừng chân nghỉ ngơi của quân đội Mỹ tại Việt Nam”. 
 
Rõ ràng, chúng cũng không thấy đắc tội với đất nước và Nhân dân khi hết lời ủng hộ, khen một số nước Đông Á, Đông Nam Á tiếp tay với Mỹ, cho Mỹ lập căn cứ hậu cần, căn cứ quân sự để phục vụ chiến tranh xâm lược Việt Nam là “khôn ngoan, thức thời, nhờ vậy mà kinh tế các nước ấy từ yếu kém trở nên giàu có”… thì đúng là phản nước tận tim can. 
 
HOÀNG NGUYÊN
 
(Còn tiếp)